Bệnh vảy nến thông thường là gì? Các công bố khoa học về Bệnh vảy nến thông thường

Bệnh vảy nến thông thường, hay còn gọi là Vảy nến đôi, là một bệnh lý da phổ biến và khá phức tạp. Bệnh này xuất hiện dưới dạng các đốm màu đỏ hoặc hồng, có vảy...

Bệnh vảy nến thông thường, hay còn gọi là Vảy nến đôi, là một bệnh lý da phổ biến và khá phức tạp. Bệnh này xuất hiện dưới dạng các đốm màu đỏ hoặc hồng, có vảy mỏng trên bề mặt da. Các vùng da bị ảnh hưởng thường có vùng biên rõ rệt và da bị khô, sần sùi, có thể gây ngứa và đau. Bệnh vảy nến thông thường thường xuất hiện ở cuốn hút, mắt cá chân, khuỷu tay và gối. Nguyên nhân gây ra bệnh vẩy nến thông thường chưa được xác định rõ, nhưng nó có thể liên quan đến di truyền, môi trường sống và hệ miễn dịch của cơ thể. Bệnh này không lây lan qua tiếp xúc với người bị nên không đáng lo ngại trong việc truyền nhiễm. Tuy nhiên, không có phương pháp điều trị vĩnh viễn cho bệnh vảy nến thông thường, nhưng các biện pháp điều trị nhằm kiểm soát triệu chứng và giảm tác động của bệnh có thể được sử dụng, bao gồm kem mỡ chống viêm, thuốc theo đơn và tác động ánh sáng.
Bệnh vảy nến thông thường, hay còn gọi là vảy nến đôi (psoriasis vulgaris), là một bệnh lý da mạn tính và di truyền. Nó là kết quả của sự tăng sinh của tế bào biểu bì (keratinocytes) trong da, gây ra sự chồng chất kết dính nhanh chóng của các tế bào này, khiến chúng tạo thành các mảng da bị vảy màu bạc.

Vảy nến thông thường thường xuất hiện ở các vùng da như cuốn hút (scalp), khuỷu tay, gối, lưng và mắt cá chân. Các triệu chứng chính của bệnh là:

1. Các mảng da bị vảy: Vảy nến thông thường có thể tạo ra các mảng da màu đỏ hoặc hồng, có vảy trên bề mặt. Vảy này thường dễ bong tróc và có kích thước và dạng khác nhau. Mảng da có thể lớn hoặc nhỏ, dày hoặc mỏng. Đặc trưng của vảy nến đôi là vảy có màu đỏ lấp lánh hoặc màu bạc, khiến cho da trông nổi bật và khác thường.

2. Da khô và sần sùi: Vùng da bị ảnh hưởng thường có da khô, sần sùi và có vẻ khô ráp. Da cũng có thể bị nứt nẻ và chảy máu khi bị tổn thương.

3. Ngứa và đau: Một số người bị vảy nến thông thường có ngứa ngáy và đau khi da bị kích thích. Ngứa có thể gây khó chịu và làm suy giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Nguyên nhân chính gây ra vảy nến thông thường vẫn chưa được hiểu rõ. Tuy nhiên, có một số yếu tố có thể đóng vai trò trong việc phát triển bệnh, bao gồm di truyền, hệ miễn dịch và môi trường. Một số yếu tố đánh kích như căng thẳng, thay đổi thời tiết, chấn thương da, nhiễm trùng và sử dụng một số loại thuốc cũng có thể gây hoặc trigger triệu chứng của bệnh.

Hiện chưa có phương pháp điều trị vĩnh viễn cho vảy nến thông thường, nhưng có nhiều biện pháp điều trị khác nhau giúp kiểm soát và giảm triệu chứng của bệnh. Điều trị bao gồm:

1. Kem mỡ chống viêm và chất lỏng tác động bên ngoài: Sử dụng các loại kem, mỡ, chất lỏng hoặc sữa tắm chứa các thành phần có khả năng làm giảm sự viêm nhiễm và vẩy trong da.

2. Thuốc điều trị từ trong: Những thuốc điều trị kê đơn như thuốc corticosteroid, retinoid (tretinoin), thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs), và thuốc điều trị hệ miễn dịch (methotrexate, cyclosporine) có thể được sử dụng để kiểm soát triệu chứng và ngăn ngừa sự tái phát của bệnh.

3. Tác động ánh sáng: Điều trị bằng ánh sáng có thể giúp kiểm soát và làm giảm triệu chứng. Phương pháp phổ biến nhất là ánh sáng UVB và photochemotherapy - PUVA (kết hợp sử dụng thuốc Psoralen và UV-A).

Ngoài ra, việc duy trì lối sống lành mạnh, tránh căng thẳng, tăng cường chế độ ăn uống cân đối và tập thể dục cũng có thể giúp kiểm soát và giảm triệu chứng của bệnh vảy nến thông thường.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh vảy nến thông thường":

Mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân vảy nến điều trị bằng thuốc sinh học so với điều trị bằng các phương pháp thông thường tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu: So sánh mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân vảy nến điều trị bằng thuốc sinh học với bệnh nhân điều trị bằng các phương pháp thông thường khác. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang có phân tích, so sánh mức độ cải thiện ở hai nhóm. Nhóm 1 có 31 bệnh nhân sử dụng thuốc sinh học bao gồm secukinumab và ustekinumab. Nhóm 2 có 31 bệnh nhân được điều trị bằng các thuốc thoa hoặc thuốc uống cổ điển. Theo dõi chỉ số chất lượng cuộc sống ở 2 nhóm tại 3 thời điểm: Đánh giá ban đầu, sau 1 tháng và sau 3 tháng điều trị. Sử dụng bảng đánh giá chất lượng cuộc sống (DLQI) gồm 10 câu hỏi đánh giá ảnh hưởng đến các vấn đề sức khỏe thể chất, công việc, sinh hoạt từ mức độ không ảnh hưởng đến ảnh hưởng rất nhiều (từ 0 - 3 điểm cho mỗi câu hỏi) được chuẩn hóa tiếng Việt. Kết quả: Nhóm 1 và nhóm 2 có tuổi, giới, nghề nghiệp, tuổi khởi phát, BMI tương đồng nhau. Chỉ số PASI nhóm 1 là 27,19 ± 9,54 cao hơn nhóm 2 (16,42 ± 7,76), khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Tại thời điểm T1 và T3 chỉ số PASI ở nhóm 1 cải thiện đáng kể so với nhóm 2 và sự khác biệt ở hai nhóm đều có ý nghĩa thống kê. Mối tương quan giữa DLQI và PASI ở nhóm 1 có ý nghĩa thống kê tại T0 (p=0,02) và T3 (p<0,0001). DLQI ở T0 của nhóm 1 (20,65 ± 6,41) cao hơn nhóm 2 (9,55 ± 6,45) (p<0,001). Tại T1 và T3, nhóm 2 có chỉ số DLQI gần như không thay đổi, trong khi đó DLQI nhóm 1 giảm nhiều, lần lượt là 9,48 ± 4,22, 3,97 ± 3,23 và khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân vảy nến được điều trị bằng thuốc sinh học cải thiện chất lượng cuộc sống nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân được điều trị bằng các phương pháp thông thường khác. Từ khóa: Vảy nến, thuốc sinh học, chất lượng cuộc sống.  
#Vảy nến #thuốc sinh học #chất lượng cuộc sống
NỒNG ĐỘ CRP, ALBUMIN VÀ GLOBULIN HUYẾT THANH VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỨC ĐỘ BỆNH VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Xác định nồng độ CRP, albumin, globulin huyết thanh của bệnh nhân vảy nến thông thường (VNTT) và mối liên quan với mức độ bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang; gồm 2 nhóm: Nhóm nghiên cứu 55 bệnh nhân nhómVNTT; 55 người khỏe mạnh ở nhóm đối chứng tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. Kết quả: Nhóm nghiên cứu tăng  nồng độ CRP huyết thanh và tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh tăng cao hơn nhóm đối chứng (p<0,001) và có liên quan thuận với mức độ bệnh. Ngược lại, nồng độ albumin huyết thanh nhóm nghiên cứu (39.41 ± 3,74g/l) giảm so với nhóm đối chứng (42.21±2,46 g/l) với p <0,001 và có mối liên quan nghicchj với mức độ bệnh. Nồng độ globulin huyết thanh giữa nhóm VNTT (30.09 ± 3.19g/l) và nhóm đối chứng (29.11 ± 3.16g/l) là tương đương nhau (p>0,05). Kết luận: Có sự tăng nồng độ CRP và tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh, giảm nồng độ albumin huyết thanh bệnh nhân VNTT và sự thay đổi có liên quan với mức độ bệnh.
#nồng độ CRP #nồng độ albumin #tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh #nồng độ globulin #bệnh vảy nến thông thường
NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ MỘT SỐ CYTOKIN Ở BỆNH VẨY NẾN THÔNG THƯỜNG MỨC ĐỘ NẶNG TRƯỚC VÀ SAU ĐIỀU TRỊ BẰNG CYCLOSPORIN A
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Xác định sự thay đổi nồng độ các cytokin IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, INF-g, TNF-α của bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng trước và sau điều trị bằng Cyclosporin A. Đối tượng và phương pháp: 35 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng điều trị ngoại  trú tại phòng khám chuyên đề bệnh vảy nến-bệnh viện Da liễu trung ương từ 10/2016-10/2019 được định lượng nồng độ các cytokine IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, INF-g, TNF- α trong huyết thanh trước và sau điều trị bằng Cyclosporin A. Kết quả: Nồng độ các cytokine IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF- α  trước và sau điều trị thay đổi không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05, tuy nhiên nồng độ INF-g huyết thanh sau điều trị đã giảm có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. Kết luận: Sau 10 tuần điều trị bệnh vảy nến thông thường mức độ nặng bằng uống Cyclosporin A liều 2,5 – 3mg/kg/ngày thì nồng độ một số cytokine IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF- α huyết thanh chưa thay đổi. Tuy nhiên nồng độ INF-g sau điều trị giảm rõ rệt.
#Bệnh vảy nến thông thường mức độ nặng #interleukin 2 #6 #8 #10 #12 #17 #INF- #TNF- α.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG BẰNG CHIẾU TIA CỰC TÍM B DẢI HẸP (NBUVB)
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Mô tả triệu chứng lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị bệnh vảy nến thông thường thể mảng bằng tia cực tím B dải hẹp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu 40 bệnh nhân vảy nến thông thường được điều trị bằng tia cực tím B dải hẹp tại bệnh viện da liễu trung ương từ tháng 6/2018 đến tháng 7/2019. Kết quả: 27 bệnh nhân nam chiếm tỷ lệ 67.5%, 13 bệnh nhân nữ chiếm tỷ lệ 31,5%. Vị trí tổn thương hay gặp nhất là ở thân mình chiếm 100%, trên đầu chiếm 92,5%. Mức độ bệnh của nhóm đối tượng nghiên cứu chủ yếu ở mức độ trung bình chiếm 82.5%, tuýp da IV 77,5%. Bệnh gặp ở bất cứ ngành nghề nào. Sau 16 lần chiếu có 7.5% bệnh nhân đạt PASI 75. không có bệnh nhân nào có tác dụng phụ nghiêm trọng trong suốt quá trình chiếu tia. Kết luận: điều trị vảy nến thể mảng thông thường bằng tia cực tím B dải hẹp có hiệu quả điều trị cao, an toàn.
#Bệnh vảy nến #Tia cực tím B dải hẹp #Hiệu quả điều trị.
Yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân vảy nến thông thường đến khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân vảy nến thông thường đến khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 150 bệnh nhân vảy nến thông thường đến khám tại Bệnh viện Da Liễu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 8/2017 đến tháng 4/2020. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân vảy nến là 48,03 ± 14,13 (năm), trong đó nhóm tuổi 40 - 59 chiếm tỷ lệ cao nhất 45,34%; tỷ lệ nam và nữ tương đương nhau; stress chiếm đến 44%, uống rượu bia 22,67%, hút thuốc lá 22,67%, nhiễm khuẩn 16%, hút thuốc lá 8,67%, Koebner 8,67% và thời gian bị bệnh dưới 5 năm 63,33%. Tổn thương đối xứng chiếm 90%; tổn thương móng là 89,33%, da đầu là 85,33%, nếp gấp 20%; mức độ nặng 45,34%, vừa 37,33% và nhẹ 17,33%. Có mối liên quan giữa PASI với thời gian bị bệnh, tổn thương móng, tổn thương da đầu. Kết luận: Tuổi bị bệnh vảy nến hay gặp là tuổi lao động sản xuất (20 - 59), chịu tác động của nhiều yếu tố như stress, uống rượu bia... Ngoài tổn thương da vùng đặc trưng còn gây tổn thương móng, nếp gấp, da đầu và có mối liên quan giữa PASI với thời gian bị bệnh, tổn thương móng, da đầu.
#Vảy nến thông thường #đặc điểm lâm sàng #yếu tố liên quan
Mối liên quan giữa đa hình đơn gen IL-17F RS763780, IL-17RA RS4819554 VÀ HLA-CW6 trên bệnh vảy nến thông thường ở Việt Nam
Vảy nến là bệnh viêm mạn tính, yếu tố di truyền đóng góp 30% trong cơ chế bệnh sinh, vì vậy xác định các dấu ấn sinh học giúp dự đoán đáp ứng điều trị và tiên lượng. Nghiên cứu khảo sát đặc điểm lâm sàng bệnh nhân vảy nến thể mảng, tỉ lệ và kiểu gen IL-17F RS763780, IL17RA rs4819554 và HLA-Cw6 ở người Việt Nam. 121 bệnh nhân vảy nến được lấy mẫu máu ngoại vi, sau đó tách chiết DNA và giải trình tự gen bằng phần mềm CLC Main Workbench v5.5. Độ nặng trung bình 20,31 ± 12,70 và PASI là 14,88 ± 7,59.  Kết quả cho thấy có sự phân bố các genotype khác nhau trên mỗi vị trí khác nhau. Gen IL-17F đoạn rs763780 có tỉ lệ AA cao nhất trên nhóm bệnh nhân vảy nến chiếm 58,7%, GA chiếm 38,0%. Gen IL-17RA đoạn rs4819554 genotype GA có tỉ lệ là 53,7% và AA là 27,3%. Nhóm bệnh có tỉ lệ HLA-Cw6 âm tính và 35,04% và dương tính là 64,96%. Những bệnh nhân dương tính với HLA-Cw6, tỷ lệ dị hợp tử chiếm 77,63% và đồng hợp tử chiếm 22,37%. Chưa phát hiện mối liên quan giữa HLA-Cw6 với các SNP IL-17F RS763780 và IL17RA rs4819554. Tuy nhiên, có mối liên quan giữa IL-17F RS763780 lại có mối liên quan với độ nặng của bệnh.  
#Đa hình đơn nucleotides #IL17RA #rs4819554 #RS763780 #HLA-Cw6 #vảy nến
Nghiên cứu một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường khám và điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 01/2018 đến tháng 12/2018
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến thông thường. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, mô tả cắt ngang. 130 bệnh nhân khám tại Phòng khám Chuyên đề vảy nến - Bệnh viện Da liễu Trung ương được chẩn đoán xác định bệnh vảy nến thông thường. Kết quả và kết luận: Một số yếu tố liên quan: Tuổi đời hay gặp nhất từ 50 - 59 tuổi chiếm 25,38%, tuổi từ 40 - 69 tuổi chiếm 59,99%. Nam giới chiếm 66,15%. Stress gặp 38,46%, vảy nến xuất hiện tháng 10 - 12 là chủ yếu chiếm 58,46%, tiền sử gia đình gặp (16/130) 12,32%, bệnh kết hợp gặp nhiều nhất rối loạn chuyển hóa lipid chiếm 16,92%, tăng huyết áp chiếm 16,92%, đái tháo đường 9,23%. Vị trí tổn thương khởi phát vùng đầu chiếm 72,31%, vị trí tổn thương hiện tại vùng thân mình cao nhất 91,54%, mức độ nhẹ chiếm 53,08%, nặng chiếm 36,15% và vừa chiếm 10,77%.   Từ khóa: Bệnh vảy nến thông thường, yếu tố liên quan, đặc điểm lâm sàng.
#Bệnh vảy nến thông thường #yếu tố liên quan #đặc điểm lâm sàng
Nghiên cứu sự thay đổi nồng độ một số cytokin trước và sau điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống methotrexate liều thấp
Tóm tắt Mục tiêu: Xác định sự thay đổi nồng độ các cytokin IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, INF-g, TNF-α và GM-CSF của bệnh nhân vảy nến thông thường trước và sau điều trị bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống methotrexate liều thấp (7,5mg/tuần). Đối tượng và phương pháp: 35 bệnh nhân vảy nến thông thường điều trị nội trú tại Bộ môn - Khoa Da liễu - Dị ứng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 5/2015-5/2018 được định lượng nồng độ các cytokine IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, INF-g, TNF- α và GM-CSF trong huyết thanh trước và sau điều trị bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống methotrexate liều thấp. Kết quả: Nồng độ các cytokine IL-2, IL-4, IL-8, IL-10, IL-17, INF-g, TNF- α và GM-CSF trước và sau điều trị thì sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê, đều với p>0,05, nhưng IL-6 sau điều trị đã giảm rõ rệt, với p<0,001. Kết luận: Sau 4 tuần điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống methotrexate liều thấp (7,5mg/tuần) thì nồng độ các IL-2, IL-4, IL-8, IL-10, IL-17, INF-g, TNF- α và GM-CSF huyết thanh chưa thay đổi, nhưng nồng độ IL-6 sau điều trị giảm rõ rệt. Từ khóa: Bệnh vảy nến thông thường, interleukin 2, 4, 6, 8, 10, 17, INF-g, TNF- α và GM-CSF.  
#Bệnh vảy nến thông thường #interleukin 2 #4 #6 #8 #10 #17 #INF-g #TNF- α và GM-CSF
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC XÉT NGHIỆM LÂM SÀNG TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ SỬ DỤNG THUỐC SINH HỌC MỚI ĐỂ ĐIỀU TRỊ BỆNH VẨY NẾN THÔNG THƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG
Nghiên cứu phân tích mối liên quan giữa xét nghiệm cận lâm sàng trong chẩn đoán và lựa chọn sử dụng thuốc mới sinh học để điều trị bệnh vảy nến thông thường tại bệnh viện Da liễu Trung ương. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Xác định và phân tích các xét nghiệm men gan, chức năng thận và triglycerid máu đóng một vai trò quan trọng trong việc theo dõi, phát hiện và ngừng sử dụng hoặc đổi thuốc hệ thống truyền thống. Xét nghiệm tổng phân tích máu và hóa sinh máu cung cấp thông tin quan trọng để lựa chọn thuốc và đánh giá về tình trạng trước khi điều trị. Xét nghiệm sàng lọc lao, viêm gan B, viêm gan C và HIV được thực hiện đẩy đủ trước khi dùng thuốc sinh học. Kết quả xét nghiệm máu đã phản ánh được 50% - 100% hiệu quả điều trị, đồng thời cũng là căn cứ để tiến hành thay đổi hướng điều trị mới bằng thuốc sinh học. Xét nghiệm QuantiFERON-TB ở các nhóm có kết quả âm tính là căn cứ để không cần điều trị lao trước khi dùng thuốc sinh học. Tỷ lệ xét nghiệm có số lượng bạch cầu trung tính, lympho và mono giữa nhóm bệnh nhân dùng Secukinumab và 2 nhóm khác, có sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05). Kết quả này cũng là cơ sở để ưu tiên sử dụng Secukinumab khi bệnh nhân có những bất thường huyết học. Hơn nữa, khi xác định được bệnh nhân vẩy nến thông thường có men gan cao so với nhóm chung (p<0,05) sẽ lựa chọn điều trị thuốc sinh học nhưng không nên sử dụng Adalimumab.
#Bệnh vẩy nến thông thường #Thuốc sinh học #Xét nghiệm cận lâm sàng
Nghiên cứu thay đổi nồng độ IL-17A và hs-CRP huyết thanh của bệnh nhân vảy nến thông thường điều trị bằng secukinumab
Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi nồng độ IL-17A và hs-CRP trên bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ vừa và nặng điều trị bằng secukinumab. Đối tượng và phương pháp: 50 bệnh nhân vảy nến thông thường (VNTT) mức độ vừa và nặng điều trị bằng secukinumab 300mg. Mức độ nặng của bệnh dựa vào chỉ số PASI (vừa-nặng: PASI ≥ 10). Định lượng hs-CRP và IL-17A theo phương pháp Elisa với bộ kit được cung cấp bởi hãng Abcam của Hoa Kỳ tại tuần 0, 12 và 24. Kết quả: Nồng độ IL-17A giảm dần theo thời gian điều trị với secukinumab có ý nghĩa thống kê, sau 12 tuần từ 29,89 giảm còn 23,82 (p<0,01), sau 24 tuần là 6,05 (p<0,001) và hs-CRP cũng giảm dần theo thời gian có ý nghĩa thống kê, sau 12 tuần từ 8,14 còn 4,27 (p<0,001) và sau 24 tuần là 2,13 (p<0,001). Kết luận: Secukinumab không chỉ giúp cải thiện nhanh các thương tổn vảy nến trên lâm sàng mà còn có vai trò giúp làm giảm nồng độ IL-17A và hs-CRP sau điều trị, từ đó có thể giúp giảm nguy cơ tim mạch và tử vong trên bệnh nhân vảy nến.
#Vảy nến thông thường #secukinumab #IL-17A #hs-CRP
Tổng số: 16   
  • 1
  • 2